DSC05688(1920X600)

Tác dụng phụ của việc sử dụng liệu pháp quang học UVB điều trị bệnh vẩy nến là gì

Bệnh vẩy nến là một bệnh ngoài da phổ biến, đa bệnh, dễ tái phát, khó chữa, ngoài các phương pháp điều trị bằng thuốc bên ngoài, liệu pháp toàn thân bằng đường uống, điều trị sinh học, còn có một phương pháp điều trị khác là vật lý trị liệu. Liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB là một liệu pháp vật lý trị liệu. Vậy liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB đối với bệnh vẩy nến có tác dụng phụ như thế nào?

Liệu pháp quang học UVB là gì? Những bệnh nào có thể được điều trị bằng nó?
Liệu pháp quang học UVBsử dụng nguồn ánh sáng nhân tạo hoặc năng lượng bức xạ mặt trời để điều trị bệnh và sử dụng tia cực tím trên cơ thể con người để điều trị bệnh bằng phương pháp gọi là liệu pháp tia cực tím. Nguyên lý của liệu pháp quang học UVB là ức chế sự tăng sinh của tế bào T trong da, ức chế sự tăng sản và dày lên của biểu bì, giảm viêm da, từ đó giảm tổn thương da.

Liệu pháp quang học UVB có tác dụng tốt trong điều trị các bệnh về da khác nhau, chẳng hạn như bệnh vẩy nến, viêm da đặc hiệu, bệnh bạch biến, bệnh chàm, bệnh vảy nến mãn tính, v.v. Trong số đó, trong điều trị bệnh vẩy nến, UVB (bước sóng 280-320nm) đóng vai trò quan trọng vai trò chính, hoạt động này là để da tiếp xúc vớitia cực tímtại một thời điểm cụ thể; Liệu pháp quang học UVB có các đặc tính khác nhau như chống viêm, ức chế miễn dịch và gây độc tế bào.

Các phân loại của liệu pháp quang học là gì?
Liệu pháp quang học bệnh vẩy nến chủ yếu có 4 loại phân loại tương ứng là điều trị bằng tia UVB, NB-UVB, PUVA, tia laser. Trong số đó, UVB tiện lợi và rẻ hơn các phương pháp trị liệu bằng ánh sáng khác, vì bạn có thểsử dụng liệu pháp quang học UVB tại nhà. Liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB thường được khuyên dùng cho người lớn và trẻ em bị bệnh vẩy nến. Nếu tổn thương vẩy nến xảy ra ở những vùng da mỏng thì hiệu quả của liệu pháp quang trị liệu sẽ tương đối rõ ràng.

Ưu điểm của là gìLiệu pháp quang học UVB cho bệnh vẩy nến?
Liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB đã được đưa vào hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh vẩy nến (phiên bản 2018) và hiệu quả điều trị của nó là chắc chắn. Thống kê cho thấy 70% đến 80% bệnh nhân vẩy nến có thể giảm 70% đến 80% các tổn thương da sau 2-3 tháng điều trị bằng đèn chiếu thường xuyên

Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đều phù hợp với liệu pháp quang trị liệu. Bệnh vẩy nến nhẹ chủ yếu được điều trị bằng thuốc bôi tại chỗ, trong khi liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB là phương pháp điều trị rất quan trọng đối với bệnh nhân ở mức độ trung bình và nặng.

quang trị liệu uvb
tia cực tím b dải hẹp

Quang trị liệu có thể kéo dài thời gian tái phát của bệnh. Nếu tình trạng bệnh nhân nhẹ, bệnh tái phát có thể duy trì trong vài tháng. Nếu bệnh dai dẳng, tổn thương trên da khó loại bỏ thì nguy cơ tái phát cao hơn, tổn thương da mới có thể xuất hiện 2-3 tháng sau khi ngừng chiếu đèn. Để có hiệu quả điều trị tốt hơn và giảm tái phát, liệu pháp quang trị liệu thường được sử dụng cùng với một số thuốc bôi tại chỗ trong thực hành lâm sàng.

Trong một nghiên cứu quan sát về hiệu quả của thuốc mỡ tacathinol kết hợp với bức xạ UVB phổ hẹp trong điều trị bệnh vẩy nến thông thường, 80 bệnh nhân được chỉ định vào nhóm đối chứng chỉ dùng liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB và một nhóm điều trị dùng tacalcitol tại chỗ (hai lần mỗi ngày) kết hợp. bằng liệu pháp quang học UVB, chiếu xạ cơ thể, cách ngày một lần.

Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân về điểm PASI và hiệu quả điều trị đến tuần thứ 4. Nhưng so với điều trị 8 tuần, điểm PASI của nhóm điều trị (điểm mức độ tổn thương da vẩy nến) được cải thiện và hiệu quả vượt trội so với nhóm đối chứng, cho thấy rằng liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB khớp tacalcitol trong điều trị bệnh vẩy nến chỉ có tác dụng tốt hơn so với liệu pháp quang trị liệu bằng UVB.

tacacitol là gì?

Tacalcitol là một dẫn xuất của vitamin D3 hoạt tính, và các loại thuốc tương tự có calcipotriol gây kích ứng mạnh, có tác dụng ức chế sự tăng sinh của tế bào biểu bì. Bệnh vẩy nến là do sự tăng sinh quá mức của các tế bào thần kinh đệm biểu bì, dẫn đến ban đỏ và vảy trắng bạc trên da.

Tacalcitol có tác dụng nhẹ và ít gây kích ứng trong điều trị bệnh vẩy nến (bệnh vẩy nến tiêm tĩnh mạch cũng có thể sử dụng) và nên dùng 1-2 lần/ngày tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh. Tại sao lại nói là nhẹ nhàng? Đối với những phần da mỏng và mềm, ngoại trừ giác mạc và kết mạc, tất cả các bộ phận trên cơ thể đều có thể sử dụng được, trong khi không thể sử dụng calcipotriol gây kích ứng mạnh ở đầu và mặt vì có thể bị ngứa, viêm da, phù nề. quanh mắt hoặc phù mặt và các phản ứng bất lợi khác. Nếu điều trị kết hợp với liệu pháp quang trị liệu bằng tia UVB thì quang trị liệu là ba lần một tuần và tacalcitol hai lần một ngày.

Liệu pháp quang học UVB có thể có tác dụng phụ gì? Cần chú ý điều gì trong quá trình điều trị?

Nói chung, hầu hết các tác dụng phụ của việc điều trị bằng tia UVB đều tương đối tạm thời, chẳng hạn như ngứa, bỏng hoặc phồng rộp. Vì vậy, đối với những tổn thương một phần da, liệu pháp quang học cần phải che phủ tốt vùng da khỏe mạnh. Không nên tắm ngay sau khi trị liệu bằng ánh sáng để không làm giảm sự hấp thụ tia cực tím và nhiễm độc quang.

Trong quá trình điều trị không nên ăn các loại trái cây và rau quả nhạy cảm: sung, rau mùi, chanh, rau diếp, v.v.; Cũng không thể dùng thuốc cảm quang: tetracycline, thuốc sulfa, promethazine, chlorpromethazine hydrochloride.

Còn đối với những thực phẩm cay nóng gây khó chịu có thể khiến bệnh nặng hơn, hãy ăn ít nhất có thể hoặc không ăn, loại thực phẩm này có hải sản, thuốc lá, rượu bia,… thông qua việc kiểm soát chế độ ăn uống hợp lý có thể thúc đẩy quá trình phục hồi các tổn thương trên da. , và ngăn ngừa hiệu quả sự tái phát của bệnh vẩy nến.

Kết luận: Quang trị liệu trong điều trị bệnh vẩy nến có thể làm giảm bớt tổn thương bệnh vẩy nến, sự kết hợp hợp lý các thuốc bôi tại chỗ có thể nâng cao hiệu quả điều trị và giảm tái phát.


Thời gian đăng: Jun-07-2022